Một kỳ thủ là ông Emmanuel Lasker đã nói: "Cờ vua chỉ hạn chế cho nhân loại sống trên trái đất, trong khi cờ vây vượt khỏi thế giới này. Nếu một hành tinh nào có những sinh vật biết lý luận thì ở đó họ phải biết đánh cờ vây."
I. Mục đích của ván cờ
Cờ vây có mục đích duy nhất là chiếm được nhiều "đất", càng rộng càng tốt. Chuyện bắt quân cũng cần nhưng được xem là thứ yếu. Thế trận trên bàn cờ vây có khả năng biến hoá cao với các đám quân và "vùng đất." Người chơi cờ vây thường tính trước nhiều nước không chỉ cho một nhóm quân mà có thể cả chục nhóm quân nằm xen kẽ phức tạp trên bàn cờ. Từ đó, cờ vây còn được nhìn nhận không phải là một chiến trường đánh phá, tiêu diệt mà là một dạng kiến thiết, xây dựng, khai phá, mở rộng phạm vi. Cờ vây khác so với các loại cờ khác là người chơi được phép nhường lượt đi của mình cho đối phương, nhất là lúc tàn cuộc và nhận ra rằng nếu mình đi thì chỉ làm cho mình bị thiệt hại, còn khi nào thấy cần thì đi tiếp. Đến khi cảhai bên đều thấy đi tiếp là vô ích, ván cờ sẽ được thỏa thuận dừng tại đây, hai bên cùng đếm "đất" để xác định thắng thua. Với bàn cờ chuẩn (19 x 19) thì sau khi đếm xong, bên Trắng được cộng thêm 5,5 (5,5 điểm do bên Trắng luôn là bên đi sau).
Note: điểm cộng gọi là komi. Trên mạng thường để Komi 6.5 cho trắng. Nếu có handi ( chấp quân ) thì Komi là 0.5 hoặc ko có ( tùy người chơi )
II. Bàn cờ và quân cờ
Theo bàn cờ nguyên thủy đã tìm thấy vào năm 1977 ở Nội Mông, trong một ngôi mộ cổ đời nhà Liêu, có một bàn cờ ngang dọc chỉ có 13x13 tạo thành 169 giao điểm. Năm 1971, bàn cờ đào được ở Hồ Nam, trong một ngôi mộ đời nhà Đường, có bàn cờ lại chia lưới 15x15. Năm 1952, ở Vọng Đô, Hà Bắc, Trung Quốc, trong một ngôi mộ thời Đông Hán có một bàn cờ lại chia lưới 17x17...Tuy những bàn cờ đó khác nhau về số nước đi nhưng tựu chung lại đều chia lưới theo số lẻ (13, 15, 17...). Bàn cờ 19 đường phát hiện sớm nhất vào khoảng đời nhà Tùy.
Quân cờ và bàn cờ vây được sáng tạo trên cơ sở của thuyết Âm Dương và vũ trụ quan của người xưa. Bàn cờ ngày nay có 19 đường kẻ ngang và 19 đường kẻ dọc tạo thành 361 giao điểm tượng trưng cho 361 ngày âm lịch. Bốn góc của bàn cờ tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Các quân cờ có hình tròn dẹt, giống hình cúc áo, 181 quân màu đen và 180 quân màu trắng. Quân cờ chỉ được nhấc ra hoặc đặt vào bàn cờ, chứ không dịch chuyển như trong cờ vua hoặc cờ tướng. Trên bàn cờ thường có 9 chấm đen gọi là các sao nhỏ giúp người chơi dễ nhận định hướng vị trí vì bàn cờ quá rộng. Điểm ở chính giữa bàn gọi là "thiên nguyên". Tám điểm ở 4 phía xung quanh bàn cờ gọi là "sao biên" và "sao góc". Vị trí ở gần vùng giữa bàn gọi là "cao" còn vị trí gần biên và góc là "thấp". Trong một ván cờ, số khả năng biến hóa có thể xảy ra là 10761. Với số giây trong 3 năm là không đến 108, nếu 10 tỉ người, mỗi người sắp 1 ván cờ trong 1 giây thì số ván cờ sắp được trong 3 năm cũng chỉ là 1017. Để so sánh thêm, con số đó trong cờ vua là nằm trong khoảng 1043 và 1050; và những nhà vật lý đã từng ước tính là không có nhiều hơn 1090 proton trên thế giới hữu hình này.
III. Nguyên tắc chơi
Luật chơi cờ vây rất đơn giản, điều chủ chốt chỉ cần nắm vững là ai chiếm được nhiều đất thì người đó thắng.
1. Khí: Các giao điểm trống nằm ngay cạnh quân cờ gọi là "khí" của quân cờ đó. Quân cờ đứng ở giữa bàn có 4 "khí", đứng ở biên có 3 "khí" và đứng ở góc có 2 "khí". Nếu một quân hoặc một nhóm quân không còn "khí", quân đó hoặc nhóm quân đó sẽ bị bắt và đưa ra khỏi bàn cờ. Nếu quân đó hoặc nhóm quân đó chỉ còn một "khí", điều đó có nghĩa là nó đang bị đe dọa, đang bị "atari" và sẽ bị đối phương bắt ngay sau nước đi tiếp theo.
Nếu một người chơi đoạt nốt "khí" cuối cùng của một quân hay nhóm quân của đối phương, anh ta sẽ nhấc quân đó ra khỏi bàn cờ và những quân cờ đó dùng để trao đổi tù binh khi tính điểm.
2. Tự tử: Trong luật chơi cũng không cho phép việc chiếm nốt "khí" cuối cùng của chính quân hay nhóm quân của bạn, trừ phi việc này dùng để bắt một vài quân bao vây của đối phương. Những quân chắc chắn đã chết, chạy đến đâu cũng không thoát gọi là quân "chết kỹ thuật" và được bỏ ra lúc hết ván.
3. Quy tắc KO: Nếu bạn bắt một quân, sẽ có thể xảy ra một trường hợp: bên đen có thể chơi ở điểm b và bắt bên trắng điểm a. Tiếp theo, đến lượt đi của bên trắng. Lúc này, bên trắng lại có thể đặt quân tại điểm a và bắt bên đen, điều này có thể dẫn đến việc quay trở lại như tình huống ban đầu. Trường hợp này được gọi là "KO" theo tiếng Nhật (劫 kō; hay コウ). Để tránh việc này xảy ra lặp đi lặp lại, người ta đã đặt ra một quy tắc "KO". Quy tắc này nói rằng, không được phép lặp lại một trạng thái(vị trí quân và lượt đi) đã có trước đây ở bàn cờ, trừ trường hợp 2 người cùng nhường lượt đi. Nếu bên đen bắt bên trắng ở a, bên trắng không được phép bắt lại bên đen ngay lập tức mà cần phải đặt quân ở nơi nào đó khác. Điều này sẽ dẫn tới khả năng là bên đen sẽ đặt tiếp quân tại b để tránh bị bên trắng bắt. Nếu bên đen không đi nước nào khác, bên trắng có thể bắt lại quân đen, bởi vì bây giờ, vị trí trên bàn cờ đã thay đổi, không giống như trước.
4. Đe dọa KO: Đây là một phương thức hay khi bị KO trong những tình thế quan trọng, liên quan đến sự sống chết của một đám quân lớn. Nếu bị KO như vậy, hãy đặt quân của bạn vào những ô có thể "atari"(chẹt) các đám quân lớn quân đối phương mà thực tế quân của bạn sẽ chết. Đối phương sẽ phải chọn 1 trong hai trường hợp: Hoặc ăn đám lớn của bạn và bạn ăn đám lớn mà bạn vừa chẹt, hoặc ăn quân mà bạn vừa chẹt để cứu đám quân của mình.
5. Tạo mắt: Khi một đám quân trong vùng của đối phương và không có đường thoát, để có thể sống, đám quân đó cần tạo ít nhất hai mắt nhỏ. Một mắt nhỏ là có 1 đến 2 khí trống. Một mắt lớn là có nhiều hơn 2 khí và có thể coi là 1 vùng đất. Thông thường, muốn chỉ cần tạo 1 mắt lớn cần tạo trên 5 khí ở góc và biên và trên 6 khí ở trung tâm thì sẽ có nhiêu khả năng sống vì khi bị xâm nhập sẽ dễ dàng tạo mắt nhỏ.
6. Chấp quân: Các đấu thủ chơi cờ vây có thể đa dạng về trình độ. Người chơi giỏi hơn có thể chơi handicap (chấp quân) với người chơi kém hơn, từ đó có thể khiến cuộc chơi thú vị hơn cho cả hai người chơi, người chơi kém hơn sẽ học được rất nhiều từ cách đi của người chơi giỏi hơn và sẽ giúp họ nâng cao trình độ chơi cờ của mình. Thông thường, số quân chấp nhiều nhất là 9 quân và người chơi kém hơn sẽ chơi quân màu đen. Những quân được chấp thường có một số vị trí xác định trên bàn cờ. Sau khi những quân cờ này được đặt lên bàn cờ, quân trắng bắt đầu nước đi đầu tiên.
IV. Phân hạng người chơi
Đẳng cấp của cờ vây phân biệt trên 2 hệ thống riêng biệt. Đó là hệ thống đẳng cấp nghiệp dư và đẳng cấp chuyên nghiệp:
1. Nghiệp dư
* Kyu (đọc là kiu): Từ người mới bắt đầu chơi đến người chơi trung bình được chia thành nhiều cấp. Cấp mạnh nhất thường là 1 kyu, càng yếu, số kyu càng cao. Chữ kyu thường được viết tắt là k
Ví dụ: Nếu thang nghiệp dư có 30 cấp từ 1 đến 30 thì cấp yếu nhất là 30k, cấp mạnh nhất là 1k.
* Dan (đọc là đẳng): Kí hiệu là d; chỉ những người có sức cờ mạnh, phát triển các kĩ năng ở mức độ cao, sử dụng các thao tác nhuần nhuyễn. Trái với kyu, khi càng mạnh số đẳng càng cao. Ví dụ: 2d thì mạnh hơn 1d và 4d mạnh hơn 2d.
Để phân biệt với dan chuyên nghiệp, ta gọi đây là dan nghiệp dư.
Thực chất sự ra đời của dan không chuyên nhằm phân hóa rõ ràng hơn khoảng cách chênh lệch giữa các trình độ. Không phải nước nào cũng công nhận kì thủ cờ vây chuyên nghiệp nên việc ra đời hệ thống không chuyên trên đáp ứng thực tế là có những kì thủ không chuyên rất mạnh thắng được những tay chuyên nghiệp.
Chênh lệch trình độ của mỗi bậc trong đẳng cấp nghiệp dư là 1 quân chấp. Khi chỉ chênh lệch một bậc, người ta thường hay chấp komi. Trong cờ vây người cầm quân đen được đánh trước vì vậy để công bằng người cầm quân trắng được cộng tầm 5,5 đến 6,5 điểm tùy theo cách tính theo luật Trung Quốc hay Nhật Bản. Điểm cộng đó gọi là komi.
2. Chuyên nghiệp
* Kyu: có lẽ chỉ có từ 5k đến 1k (1k là cao nhất). Đẳng cấp kyu của chuyên nghiệp nhằm chỉ đến những người sắp sửa bước vào thế giới chuyên nghiệp của cờ vây, có thể họ đang rèn luỵện, học tập trong các trường dạy cờ nổi tiếng.
* Dan: Để phân biệt với dan không chuyên, người ta thường kí hiệu là p. Kì thủ được gọi là chuyên nghiệp khi được hiệp hội cờ vây của nước sở tại cấp chứng chỉ khẳng định trình độ chuyên môn. Một vài giải lớn thực sự chỉ dành riêng cho dân chuyên nghiệp. Hiện chỉ có vài nước là chứng nhận chuyên nghiệp như Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên. Một số kì thủ các nước phương Tây tìm đến "tầm sư học đạo" và họ được gọi là insei. Khi một insei đủ mạnh để vượt qua kì xét tuyển, họ được cấp chứng chỉ của nước đó và được xem là chuyên nghiệp.
Do số dan chuyên nghiệp được tính bằng cách riêng và một phần dựa vào danh hiệu đạt được nên không thể xét mạnh yếu như với không chuyên. Những đại kì thủ 9p có thể chấp những tân 1p và thắng hoặc 2p có thể cầm trắng vẫn thắng 8p. Một kì thủ có thể nhảy hạng nếu đạt được một danh hiệu cao quý nào đó.
V. So sánh
Ở trình độ không chuyên, sức cờ thể hiện rõ ràng qua con số. Đối với chuyên nghiệp, thứ hạng lại không thể hiện điều đó. Tuy nhiên không có nghĩa là tay cờ vây không chuyên hạng 30k không thể thắng các tay cờ vây 5p. Các kì thủ không chuyên giỏi nhất có thể thắng các kì thủ chuyên nghiệp có cấp hạng cao. Điều này là bình thường, đơn giản: cờ vây cũng là một môn thể thao. Và trong thể thao, không thể nói trước điều gì.
VI. Các giai đoạn của một ván cờ
Sự mềm dẻo, khôn ngoan, nhẫn nại, biết bỏ cái nhỏ để giành cái lớn, biết hy sinh tiểu tiết để giành đại cục nhằm dẫn tới thắng lợi, được đối phương "tâm phục khẩu phục" được xem là cốt lõi của cờ vây.
Ván cờ vây được chia thành 3 giai đoạn, gọi là: Bố cục, Trung bàn (còn gọi là Trung bàn chiến - vì ở giai đoạn này thường xảy ra chiến đấu kịch liệt), và Quan tử.
1. Bố cục
Giai đoạn ra quân trong cờ vây gọi là fuseki. Đây là giai đoạn quyết định cả bộ mặt của ván cờ sau này. Phần lớn trong khai cuộc, người ta tìm cách "án ngữ" chỉ vùng đất lớn trên bàn cờ bằng 1 đến 2 con; sau đó sẽ phát triển dần. Thông thường, các kì thủ bắt đầu bằng việc chiếm góc mà phần lớn là vào sao.
Khai cuộc cực kì khó, đơn giản vì bàn cờ vây có rất nhiều điểm để đặt quân. Để hỗ trợ cho các kì thủ nghiệp dư, nhiều cao thủ chuyên nghiệp đã nghiên cứu, sáng tác ra các thế khai cuộc gọi là joseki. Joseki liên tục phát triển và đổi mới.
2. Trung bàn chiến
Ở phần này, chủ yếu hai bên tập trung vào việc tranh giành đất đai, bắt đầu tính tới các vùng tranh chấp, tìm cách đặt quân như thế nào để hạn chế sự bành trướng của đối phương, chuẩn bị vây bắt quân đối phương. Những quân bị đối phương vây sẽ bị tiêu diệt nếu không tạo được hai mắt. Nếu quân đã bị bao vây, cần phải tìm cách dàn quân bên trong để tạo ra các "mắt".
Trung bàn là nơi thể hiện rõ nhất tinh hoa của trí sáng tạo, trí khôn ngoan và sức cờ dẻo dai. Có những người thậm chí có thể dự đoán được sự quan trọng của quân đến 60 nước cờ. Do kết quả cờ vây được quyết định bởi điểm số mục nên các kì thủ sử dụng nhiều cách thức: hoặc nhảy phá đất đối phương, tiêu diệt quân, hoặc vây chắc đất... để giành phần thắng. Ở trung bàn, nhiều cuộc đuổi bắt lớn tới mức chỉ cần thất bại, người chơi tự chịu thua mà không cần đến giai đoạn Quan tử.
Hầu hết các ván cờ nổi tiếng đều nhờ kĩ năng điêu luyện của các kì thủ thể hiện trong giai đoạn Trung bàn này
3. Quan tử
Sau khi qua trung cuộc, các vùng lãnh thổ của cả hai đấu thủ tạm thời xác định, ít có khả năng tạo ra những thay đổi lớn về tương quan thế lực của 2 bên, việc hoàn chỉnh lãnh thổ chỉ còn là những việc nhỏ chi tiết, đó chính là giai đoạn tàn cuộc của ván cờ, gọi là yose (tiếng Nhật).
VII. Triết lý và giai thoại trong cờ vây
* Âu Dương Tu đời nhà Tống có viết trong Tân Ngũ Đại Sử :
Việc trị nước cũng không khác gì đánh cờ vây, biết cách dùng, biết cách đặt cho đúng chỗ thì thắng, không biết cách dùng, cách đặt thì thua.
* Lục Cửu Uyên, một lý học gia người Trung Hoa, treo bàn cờ trên tường và trầm tư suy nghĩ, sau hai ngày có thốt ra một câu :
Cờ vây so với hà đồ cũng chẳng có khác gì nhau.
* Vào đời nhà Tấn, ở núi Tín An, quận Thạch Thất, có một tiều phu tên là Vương Chất. Khi đi vào rừng đốn củi như mọi hôm, ông thấy có hai đứa bé ngồi đánh cờ. Ông được đưa cho một vật nhỏ như hạt táo, ăn vào để không cảm thấy đói. Hai đứa bé thì đánh cờ, còn Vương Chất ngồi chống búa xem. Sau thời gian khá lâu, một đứa bé chỉ vào ông và nói rằng, cán búa của ngươi mục rồi kìa. Sau khi hết ván cờ, Vương Chất trở về quê cũ thì mọi thứ đã thay đổi khác, do lúc này ông đã 100 tuổi. (Lạn Kha tiên khách)
VIII. MỘT SỐ ĐIỀU CẦN NHỚ
1. Thập quyết của Sự lâm Quảng ký :
- Không ham thắng .
- Đánh phải thư thả .
- Công định nhưng không quên củng cố bên mình .
- Chịu mất quân để tranh tiên .
- Thả cái nhỏ để được cái lớn .
- Thấy nguy thì bỏ .
- Cẩn thận không hối hả .
- Ra quân cần tương ứng .
- Nếu địch thủ mạnh thì củng cố bên mình .
- Thế yếu thì cố thủ hoà .
2. Bốn phương diện của Lưu Trọng Phủ
- Bố trí : cần chặt chẽ, liền mạch cốt sao cho quân nọ liền quân kia, ràng buộc hỗ trợ lẫn nhau nhưng cũng đừng để quá gần để trở thành một thế cờ phức tạp .
- Tấn công : khi vừa ổn định thế cờ là phải lập tức tìm cơ hội tấn công vào trận địa của đối phương để bên mình không bị đối thủ uy hiếp .
- Dụng chiến : nơi nào không ảnh hưởng đến bên mình,không làm hại đến toàn cục thì hãy đi .
- Thu xả : phàm bên trong mà đầy đủ ắt dự tính được chước lạ, bên ngoài mà đầy đủ thì hình thể được phong long, dẫu có ít cũng có thể thu về tự bảo
IX. 1 số trang web liên quan
1. Trang web chính thức của cờ vây Việt Nam
2. Bách khoa cờ vây
3. Chia sẻ tài nguyên cờ vây [ From anh Tuệ Cinkrisom ]
4. Ebook cờ vây - Dành cho trình độ dưới 2d
5. FICGS
6. KGS
7. IGS
8. Goproblems [ ★ ]
9. Wikipedia [ Bài viết có sử dụng tư liệu trên trang web này :| ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét